hv-ebook @ Bình Ngô Đại Cáo 平吳大告 @ tác giả: Nguyễn Trãi 阮廌 @ dịch giả: Bùi Kỷ @ "Hán Việt Từ Điển Trích Dẫn" online, chú giải: Đặng Thế Kiệt
Saturday, 14 March 2015
Bình Ngô Đại Cáo 平吳大告
平吳大告
bình Ngô (0) đại cáo
代天行化皇上若曰。
Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết。
蓋聞﹕
cái văn﹕
仁義之舉, 要在安民,
nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
弔伐之師莫先去暴。
điếu phạt (1) chi sư mạc tiên khử bạo。
惟,我大越之國,
duy, ngã Đại Việt chi quốc,
實為文獻之邦。
thật vi văn hiến chi bang。
山川之封域既殊,
san xuyên chi phong vực kí thù,
南北之風俗亦異
nam bắc chi phong tục diệc dị。
自趙丁李陳之肇
tự Triệu Đinh Lí Trần chi triệu
造我國,
tạo ngã quốc,
與漢唐宋元而各
dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các
帝一方。
đế nhất phương。
雖強弱時有不同
tuy cường nhược thì hữu bất đồng
而豪傑世未常乏
nhi hào kiệt thế vị thường phạp。
Tượng mảng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân; quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc lập; cùng Hán, Ðường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có.
故劉龔貪功以取敗,
cố Lưu Cung (2) tham công dĩ thủ bại,
而趙卨大以促亡
nhi Triệu Tiết (3) đại dĩ xúc vong。
唆都既擒於鹹子關,
Toa Đô (4) kí cầm ư Hàm Tử quan,
烏馬又殪於白藤海。
Ô Mã (5) hựu ế ư Bạch Đằng hải。
嵇諸往古, 厥有明徵。
kê chư vãng cổ, quyết hữu minh trưng。
Vậy nên:
Lưu-Cung sợ uy mất vía, Triệu-Tiết nghe tiếng giật mình. Cửa Hàm-Tử giết tươi Toa-Đô, sông Bạch-Đằng bắt sống Ô-Mã. Xét xem cổ tích, đã có minh trưng,
頃因胡政之煩苛
khoảnh nhân Hồ (6) chánh chi phiền hà。
至使人心之怨叛
chí sử nhân tâm chi oán bạn。
狂明伺隙, 因以毒
cuồng Minh tí khích, nhân dĩ độc
我民;
ngã dân;
惡黨懷奸, 竟以賣
ác đảng hoài gian, cánh dĩ mại
我國。
ngã quốc。(7)
焮蒼生於虐焰,
hân thương sanh ư ngược diễm,
陷赤子於禍坑。
hãm xích tử (8) ư họa khanh。
欺天罔民, 詭計蓋
khi thiên võng dân, quỷ kế cái
千萬狀;
thiên vạn trạng;
連兵結釁稔惡殆
liên binh kết hấn nhẫm ác đãi
二十年。
nhị thập niên。
敗義傷仁,乾坤
bại nghĩa thương nhân, càn khôn
幾乎欲息;
cơ hồ dục tức;
重科厚歛, 山澤靡
trọng khoa hậu liễm, san trạch mĩ
有孑遺。
hữu kiết di。
開金場塞冒嵐瘴
khai kim tràng tắc mạo lam chướng
而斧山淘沙,
nhi phủ san đào sa,
採明珠則觸蛟龍
thải minh châu tắc xúc giao long
而緪腰汆海。
nhi căng yêu thộn hải。
擾民設玄鹿之陷阱,
nhiễu dân thiết huyền lộc (9) chi hãm tỉnh,
殄物織翠禽之網羅。
điễn vật chức thúy cầm chi võng la。
昆虫草木皆不得
côn trùng thảo mộc giai bất đắc
以遂其生,
dĩ toại kì sanh,
鰥寡顛連俱不獲
quan quả điên liên (10) câu bất hoạch
以安其所。
dĩ an kì sở。
浚生靈之血以潤
tuấn sanh linh chi huyết dĩ nhuận
桀黠之吻牙;
kiệt hiệt (11) chi vẫn nha;
極土木之功以崇
cực thổ mộc chi công dĩ sùng
公私之廨宇。
công tư chi giải vũ。(12)
州里之征徭重困,
châu lí chi chinh dao trọng khốn,
閭閻之杼柚皆空
lư diêm chi trữ dữu giai không。
決東海之水不足
quyết đông hải chi thủy bất túc
以濯其污,
dĩ trạc kì ô,
罄南山之竹不足
khánh nam san chi trúc (13) bất túc
以書其惡。
dĩ thư kì ác。
神民之所共憤,
thần dân chi sở cộng phẫn,
天地之所不容。
thiên địa chi sở bất dong。
Vừa rồi:
Vì họ Hồ chính sự phiền hà, để trong nước nhân dân oán hận. Quân cường Minh đã thừa cơ tứ ngược, bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn nghìn khoé, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân nghĩa nát cả càn khôn, nặng khóa liễm vét không sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống biển mò châu; nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim trả. Tàn hại cả côn trùng thảo mộc, nheo nhóc thay! quan quả điên liên! Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ mất cả nghề canh cửi.
Ðộc ác thay! trúc rừng không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay! nước bể khôn rửa sạch mùi,
Lẽ nào trời đất tha cho; ai bảo thần nhân nhịn được.
予﹕
dư﹕
奮跡藍山,
phấn tích (14) Lam San,
棲身荒野。
tê thân hoang dã。
念世讎豈可共戴,
niệm thế thù khởi khả cộng đái,
誓逆賊難與俱生
thệ nghịch tặc nan dữ câu sanh。
痛心疾首者垂十
thống tâm tật thủ giả thùy thập
餘年,
dư niên,
嘗膽臥薪者蓋非
thường đảm ngọa tân giả cái phi
一日。
nhất nhật。
發憤忘食, 每研覃
phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm
韜略之書,
thao lược chi thư,
即古驗今, 細推究
tức cổ nghiệm kim, tế thôi cứu
興亡之理。
hưng vong chi lí。
圖回之志
đồ hồi chi chí
寤寐不忘。
ngụ mị bất vong。
當義旗初起之時,
đương nghĩa kì sơ khởi chi thì,
正賊勢方張之日
chánh tặc thế phương trương chi nhật。
Ta đây:
Núi Lam-Sơn dấy nghĩa; chốn hoang dã nương mình. Ngắm non sông căm nỗi thế thù; thề sống chết cùng quân nghịch tặc. Ðau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy nắng mưa; nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh; ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang thịnh,
奈以﹕
nại dĩ﹕
人才秋葉,
nhân tài thu diệp,
俊傑晨星。
tuấn kiệt thần tinh。
奔走先後者既乏
bôn tẩu tiên hậu giả kí phạp
其人,
kì nhân,
謀謨帷幄者又寡
mưu mô duy ác giả hựu quả
其助。
kì trợ。
特以救民之念, 每
đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi
鬱鬱而欲東;
uất uất nhi dục đông;
故於待賢之車, 常
cố ư đãi hiền chi xa, thường
汲汲已虛左.
cấp cấp dĩ hư tả. (15)
然其﹕
nhiên kì﹕
得人之效茫若望洋,
đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,
由己之誠甚於拯溺。
do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch。 (16)
憤兇徒之未滅,
phẫn hung đồ chi vị diệt,
念國步之遭迍。
niệm quốc bộ chi tao truân。
靈山之食盡兼旬,
Linh San (17) chi thực tận kiêm tuần,
瑰縣之眾無一旅
Khôi huyện chi chúng vô nhất lữ。
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu. Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần; nơi duy ác hiếm người bàn bạc. Ðôi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục đông; mấy thuở đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả. Thế mà trông người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt mù như kẻ vọng dương; thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vã như khi chửng nịch. Phần thì giận hung đồ ngang dọc; phần thì lo quốc bộ khó khăn. Khi Linh-Sơn lương hết mấy tuần; Khi Khôi huyện quân không một lữ.
蓋天欲困我以降
cái thiên dục khốn ngã dĩ hàng
厥任,
quyết nhậm,
故與益勵志以濟
cố dữ ích lệ chí dĩ tế
于難。
vu nan。
揭竿為旗, 氓隸之
yết can vi kì (18), manh lệ (19) chi
徒四集
đồ tứ tập
投醪饗士,父子之
đầu dao (20) hưởng sĩ, phụ tử chi
兵一心。
binh nhất tâm。
以弱制彊,或攻
dĩ nhược chế cường, hoặc công
人之不備;
nhân chi bất bị;
以寡敵眾常設伏
dĩ quả địch chúng thường thiết phục
以出奇。
dĩ xuất kì。
Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt phải trải qua bách chiết thiên ma, cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. Múa đầu gậy, ngọn cờ phấp phới, ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ. Mở tiệc quân, chén rượu ngọt ngào, khắp tướng sĩ một lòng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi, quân giặc nhiều ta ít mà được luôn.
卒能﹕
tốt năng﹕
以大義而勝兇殘,
dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
以至仁而易彊暴。
dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo。
蒲藤之霆驅電掣
Bồ Đằng (21) chi đình khu điện xiết, (22)
茶麟之竹破灰飛
Trà Lân (23) chi trúc phá hôi phi。
士氣以之益增,
sĩ khí dĩ chi ích tăng,
軍聲以之大振。
quân thanh dĩ chi đại chấn。
陳智山壽聞風而;
Trần Trí San Thọ văn phong nhi;
褫魄,
sỉ phách,
李安方政假息以
Lí An Phương Chánh (24) giả tức dĩ
偷生。
thâu sanh。
乘勝長驅, 西京既
thừa thắng trường khu, Tây Kinh (25) kí
為我有;
vi ngã hữu;
選兵進取,東都
tuyển binh tiến thủ, Đông Đô (25)
盡復舊疆。
tận phục cựu cương。
寧橋之血成川, 流
Ninh Kiều (26) chi huyết thành xuyên, lưu
腥萬里;
tinh vạn lí;
窣洞之屍積野,
Tốt Động (27) chi thi tích dã,
遺臭千年。
di xú thiên niên。
陳洽賊之腹心, 既
Trần Hiệp (28) tặc chi phúc tâm, kí
梟其首;
kiêu kì thủ;
李亮賊之奸蠹, 又
Lí Lượng (28) tặc chi gian đố, hựu
暴厥屍。
bạo quyết thi。
王通理亂而焚者
Vương Thông (28) lí loạn nhi phần giả
益焚,
ích phần,
馬瑛救鬥而怒者
Mã Anh (28) cứu đấu nhi nộ giả
益怒。
ích nộ。
彼智窮而力盡, 束
bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc
手待亡;
thủ đãi vong;
我謀伐而心攻, 不
ngã mưu phạt nhi tâm công (29) , bất
戰自屈。
chiến tự khuất。
謂彼必易心而改慮
vị bỉ tất dịch tâm nhi cải lự,
豈意復作孽以速辜。
khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô。(30)
執一己之見以嫁
chấp nhất kỉ chi kiến dĩ giá
禍於他人,
họa ư tha nhân,
貪一時之功以貽
tham nhất thì chi công dĩ di
笑於天下。
tiếu ư thiên hạ。
遂靈宣德之狡童,
toại linh Tuyên Đức (31) chi giảo đồng,
黷兵無厭;
độc binh vô yếm;
仍命晟昇之懦將
nhưng mệnh Thạnh Thăng (32) chi nọa tướng
,以油救焚。
, dĩ du cứu phần。
Dọn hay:
Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn; lấy chí nhân mà thay cường bạo. Trận Bồ- Đằng sấm vang sét dậy; miền Trà-Lân trúc phá tro bay. Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh. Trần-Trí, Sơn-Thọ, mất vía chạy tan; Phương-Chính, Quý-An tìm đường trốn tránh. Ðánh Tây-Kinh phá tan thế giặc; lấy Ðông-Đô thu lại cõi xưa. Dưới Ninh-Kiều máu chảy thành sông, Bến Tụy-Động xác đầy ngoài nội. Trần-Hiệp đã thiệt mạng; Lý- Lương lại phơi thây. Vương-Thông hết cấp lo lường; Mã-Anh khôn đường cứu đỡ. Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao; ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ, biết lẽ tới lui; ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội nghiệt. Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người; tham công một thời, chẳng bõ bày trò dở duốc. Ðến nỗi đứa trẻ con như Tuyên-Ðức, nhàm võ không thôi; lại sai đồ nhút nhát như Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy.
丁未九月柳昇遂
Đinh Mùi cửu nguyệt Liễu Thăng (32) toại
引兵猶邱溫而進,
dẫn binh do Khâu Ôn (33) nhi tiến,
本年十月木晟又
bổn niên thập nguyệt Mộc Thạnh (32) hựu
分途自雲南而來。
phân đồ tự Vân Nam nhi lai。
予前既選兵塞險
dữ tiền kí tuyển binh tắc hiểm
以摧其鋒,
dĩ tồi kì phong,
予後再調兵截路
dữ hậu tái điều binh tiệt lộ
以斷其食。
dĩ đoạn kì thực。
本月十八日柳昇
bổn nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng
為我軍所攻,計墜
vi ngã quân sở công, kế trụy
於支稜之野;
ư Chi Lăng (34) chi dã;
本月二十日柳昇
bổn nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng
又為我軍所敗, 身死
hựu vi ngã quân sở bại, thân tử
於馬鞍之山。
ư Mã Yên (35) chi san。
二十五日保定伯
nhị thập ngũ nhật Bảo Định Bá
梁銘陣陷而喪軀,
Lương Minh (36) trận hãm nhi tang khu,
二十八日尚書李
nhị thập bát nhật thượng thư Lí
慶計窮而刎首.
Khánh (37) kế cùng nhi vẫn thủ.
我遂迎刃而解,
ngã toại nghênh nhận nhi giải,
彼自倒戈相攻。
bỉ tự đảo qua tương công。
繼而四面添兵以
kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ
包圍,
bao vi,
期以十月中旬而
kì dĩ thập nguyệt trung tuần nhi
殄滅。
điễn diệt。
Năm Ðinh-Mùi tháng chín, Liễu-Thăng từ Khâu-Ôn tiến sang. Lại năm nay tháng mười, Mộc-Thạnh từ Vân-Nam kéo đến. Ta đã điều binh thủ hiểm, để ngăn lối Bắc quân; ta lại sai tướng chẹn ngang, để tuyệt đường lương đạo. Mười tám, Liễu-Thăng thua ở Chi-Lăng; hai mươi, Liễu-Thăng chết ở Mã-Yên. Hai mươi lăm, Lương-Minh trận vong; hai mươi tám, Lý-Khánh tự vẫn. Lưỡi đao ta đang sắc, ngọn giáo giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vây thành; hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc.
爰選貔貅之士,
viên tuyển tì hưu (38) chi sĩ,
申命爪牙之臣。
thân mệnh trảo nha chi thần。
飲象而河水乾,
ẩm tượng nhi hà thủy can,
磨刀而山石鈌。
ma đao nhi san thạch quyết。
一鼓而黥刳鱷斷,
nhất cổ nhi kình (39) khô ngạc đoạn,
再鼓而鳥散麇驚
tái cổ nhi điểu tán quân kinh。
決潰蟻於崩堤,
quyết hội nghĩ ư băng đê,
振剛風於稿葉。
chấn cương phong ư cảo diệp。
都督崔聚膝行而
đô đốc Thôi Tụ (40) tất hành nhi
送款,
tống khoản,
尚書黃福面縛以
thượng thư Hoàng Phúc (41) diện phược dĩ
就擒。
tựu cầm。
Sĩ tốt ra oai tì hổ, thần thứ đủ mặt trảo nha.
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn.
Ðánh một trận sạch không kình ngạc; đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô; tổ kiến hổng sụt toang đê cũ.
Thôi-Tụ phải quỳ mà xin lỗi; Hoàng-Phúc tự trói để ra hàng.
僵屍塞諒江諒山
cương thi tắc Lạng Giang (42) Lạng San
之途,
chi đồ,
戰血赤昌江平灘
chiến huyết xích Xương Giang Bình Than (43)
之水。
chi thủy。
風雲為之變色,
phong vân vi chi biến sắc,
日月慘以無光。
nhật nguyệt thảm dĩ vô quang。
其雲南兵為我軍
kì vân nam binh vi ngã quân
所扼於梨花,自恫
sở ách ư Lê Hoa (44), tự đỗng
疑虛喝而先以破腑;
nghi hư hát nhi tiên dĩ phá phủ;
其沐晟眾聞柳昇
kì Mộc Thạnh chúng văn Liễu Thăng
為我軍所敗於芹站,
vi ngã quân sở bại ư cần trạm,
遂躪藉奔潰而僅得
toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc
脫身.
thoát thân.
冷溝之血杵漂, 江
Lãnh Câu chi huyết xử phiêu, giang
水為之嗚咽;
thủy vi chi ô yết;
丹舍之屍山積, 野
Đan Xá chi thi san tích, dã
草為之殷紅.
thảo vi chi ân hồng.
兩路救兵既不旋
lưỡng lộ cứu binh kí bất toàn
踵而俱敗,
chủng nhi câu bại,
各城窮寇亦將解
các thành cùng khấu diệc tương giải
甲以出降。
giáp dĩ xuất hàng。
Lạng-Giang, Lạng-Sơn, thây chất đầy đồng; Xương-giang, Bình-Than, máu trôi đỏ nước.
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi. Thảm đạm thay! Sáng nhật nguyệt phải mờ.
Binh Vân-Nam nghẽn ở Lê-Hoa, sợ mà mất mật; quân Mộc-Thạnh tan chưng Cần-Trạm, chạy để thoát thân. Suối máu Lãnh-Câu, nước sông rền rĩ; thành xương Ðan-Xá, cỏ nội đầm đìa. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy; các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu.
賊首成擒, 彼既掉
tặc thủ thành cầm, bỉ kí điệu
餓虎乞憐之尾;
ngạ hổ khất liên chi vĩ;
神武不殺, 予亦體
thần vũ bất sát (45), dữ diệc thể
上帝孝生之心。
thượng đế hiếu sanh chi tâm。
參將方政,內官馬
tham tướng Phương Chánh, nội quan Mã
騏, 先給艦五百餘艘,
Kì, tiên cấp hạm ngũ bách dư tao,
既渡海而猶且魂飛
kí độ hải nhi do thả hồn phi
魄散;
phách tán;
總兵王通, 參政馬
tổng binh Vương Thông, tham chánh Mã
瑛,又給馬數千餘
Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư
匹, 已還國而益自股
thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ
慄心驚。
lật tâm kinh。
Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội. Thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh. Mã-Kỳ, Phương-Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực; Vương-Thông, Mã-Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ hôi.
彼既畏死貪生, 而
bỉ kí úy tử tham sanh, nhi
修好有誠;
tu hảo hữu thành;
予以全軍為上, 而
dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi
欲民之得息.
dục dân chi đắc tức.
非惟謀計之極其
phi duy mưu kế chi cực kì
深遠,
thâm viễn,
蓋亦古今之所未
cái diệc cổ kim chi sở vị
見聞。
kiến văn。
社稷以之奠安,
xã tắc dĩ chi điện an,
山川以之改觀。
san xuyên dĩ chi cải quan。
乾坤既否而復泰,
càn khôn kí phủ nhi phục thái,
日月既晦而復明
nhật nguyệt kí hối nhi phục minh。
于以開萬世太平
vu dĩ khai vạn thế thái bình
之基,
chi cơ,
于以雪天地無窮
vu dĩ tuyết thiên địa vô cùng
之恥。
chi sỉ。
是由天地祖宗之
thị do thiên địa tổ tông chi
靈有
linh hữu
以默相陰佑而致
dĩ mặc tương âm hựu nhi trí
然也!
nhiên dã!
Nó đã sợ chết cầu hòa, mở lòng thú phục; ta muốn toàn-quân làm cốt, cả nước nghỉ ngơi. Thế mới là mưu kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có. Giang san từ đây mở mặt;
xã tắc từ đây vững bền. Nhật nguyệt hối mà lại minh; Kiền, Khôn, Bĩ mà lại Thái. Nền vạn thế xây nên chăn chắn; thẹn nghìn thu rửa sạch làu làu. Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng giúp đỡ cho nước ta vậy.
於戲!
ô hô!
一戎大定,
nhất nhung đại định,
迄成無兢之功;
hất thành vô căng chi công;
四海永清,
tứ hải vĩnh thanh,
誕布維新之誥.
đản bố duy tân chi cáo.
播告遐邇,咸使
bá cáo hà nhĩ, hàm sử
聞知.
văn tri.
Than ôi!
Vẫy vùng một mảnh nhung y, nên công đại định. Phẳng lặng bốn bề thái vũ, mở hội vĩnh thanh.
Bá cáo xa gần,
Ngỏ cùng nghe biết.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment