Wednesday 18 March 2015

Bình Ngô Đại Cáo (phiên âm)





Bình Ngô (0) đại cáo

Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết。
Cái văn﹕ nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân, điếu phạt
(1) chi sư mạc tiên khử bạo。 duy ngã Đại Việt chi quốc, thật vi văn hiến chi bang。 san xuyên chi phong vực kí thù, nam bắc chi phong tục diệc dị。 tự Triệu Đinh Lí Trần chi triệu tạo ngã quốc, dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương。 Tuy cường nhược thì hữu bất đồng nhi hào kiệt thế vị thường phạp。 

Cố Lưu Cung (2) tham công dĩ thủ bại, nhi Triệu Tiết (3) hảo đại dĩ xúc vong。 Toa Đô (4) kí cầm ư Hàm Tử quan, Ô Mã (5) hựu ế ư Bạch Đằng hải。 kê chư vãng cổ, quyết hữu minh trưng。 
Khoảnh nhân Hồ (6) chánh chi phiền hà。 Chí sử nhân tâm chi oán bạn。 Cuồng Minh tí khích, nhân dĩ độc ngã dân; ác đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc (7) 。 Hân thương sanh ư ngược diễm, hãm xích tử (8) ư họa khanh。 Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng; liên binh kết hấn nhẫm ác đãi nhị thập niên。 Bại nghĩa thương nhân, càn khôn cơ hồ dục tức;trọng khoa hậu liễm, san trạch mĩ hữu kiết di。 Khai kim tràng tắc mạo lam chướng nhi phủ san đào sa, thải minh châu tắc xúc giao long nhi căng yêu thộn hải。 nhiễu dân thiết huyền lộc  (9) chi hãm tỉnh, điễn vật chức thúy cầm chi võng la。Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kì sanh, quan quả điên liên (10) câu bất hoạch dĩ an kì sở。Tuấn sanh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt  (11) chi vẫn nha; cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ (12) 。 Châu lí chi chinh dao trọng khốn, lư diêm chi trữ dữu giai không。 Quyết đông hải chi thủy bất túc dĩ trạc kì ô, khánh nam san chi trúc (13) bất túc dĩ thư kì ác。 Thần dân chi sở cộng phẫn, thiên địa chi sở bất dong。
Dư phấn tích (14) Lam San, tê thân hoang dã。 Niệm thế thù khởi khả cộng đái, thệ nghịch tặc nan dữ câu sanh。 Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên, thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật。 Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư, tức cổ nghiệm kim, tế thôi cứu hưng vong chi lí。 Đồ hồi chi chí ngụ mị bất vong。 Đương nghĩa kì sơ khởi chi thì, chánh tặc thế phương trương chi nhật。 

Nại dĩ﹕ nhân tài thu diệp, tuấn kiệt thần tinh。 bôn tẩu tiên hậu giả kí phạp kì nhân, mưu mô duy ác giả hựu quả kì trợ。 đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông; cố ư đãi hiền chi xa,thường cấp cấp dĩ hư tả  (15) 。 
Nhiên kì đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương, do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch  (16) 。 Phẫn hung đồ chi vị diệt, niệm quốc bộ chi tao truân。 Linh San  (17) chi thực tận kiêm tuần , Khôi huyện chi chúng vô nhất lữ。 cái thiên dục khốn ngã dĩ hàng
quyết nhậm, cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan。 Yết can vi kì (18) , manh lệ (19)  chi đồ tứ tập; đầu dao  (20) hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm。 Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;dĩ quả địch chúng thường thiết phục dĩ xuất kì。 

Tốt năng dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn, dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo。 Bồ Đằng (21)  chi đình khu điện xiết (22) , Trà Lân (23)  chi trúc phá hôi phi。 Sĩ khí dĩ chi ích tăng, quân thanh dĩ chi đại chấn。 Trần Trí San Thọ (24) văn phong nhi sỉ phách, Lí An Phương Chánh (24) giả tức dĩ thâu sanh。 Thừa thắng trường khu, Tây Kinh (25) kí vi ngã hữu; tuyển phong tiến thủ,Đông Đô (25) tận phục cựu cương。 Ninh Kiều (26) chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lí; Tốt Động (27) chi thi tích dã, di xú thiên niên。 Trần Hiệp (28) tặc chi phúc tâm, kí kiêu kì thủ; Lí Lượng (28) tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi。 Vương Thông (28) lí loạn nhi phần giả ích phần, Mã Anh (28) cứu đấu nhi nộ giả ích nộ。 bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong; ngã mưu phạt nhi tâm công (29) , bất chiến tự khuất。 Vị bỉ tất dịch tâm nhi cải lự, khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô (30) 。 Chấp nhất kỉ chi kiến dĩ giá họa ư tha nhân, tham nhất thì chi công dĩ di tiếu ư thiên hạ。 toại lệnh Tuyên Đức (31) chi giảo đồng, độc binh vô yếm; nhưng mệnh Thạnh Thăng (32) chi nọa tướng, dĩ du cứu phần。 
Đinh Mùi cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn (33) nhi tiến, bổn niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai。 dữ tiền kí tuyển binh tắc hiểm dĩ tồi kì phong, dữ hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kì thực。 Bổn nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng (32) vi ngã quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng (34) chi dã; bổn nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vi ngã quân sở bại,thân tử ư Mã Yên (35) chi san。Nhị thập ngũ nhật Bảo Định Bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu, nhị thập bát nhật thượng thư Lí Khánh (37) kế cùng nhi vẫn thủ。 Ngã toại nghênh nhận nhi giải, bỉ tự đảo qua tương công。 Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi, kì dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt。 Viên tuyển tì hưu (38) chi sĩ, thân mệnh trảo nha chi thần。 ẩm tượng nhi hà thủy can, ma đao nhi san thạch quyết。 nhất cổ nhi kình (39) khô ngạc đoạn, tái cổ nhi điểu tán quân kinh。 Quyết hội nghĩ ư băng đê, chấn cương phong ư cảo diệp。 Đô đốc Thôi Tụ (40) tất hành nhi tống khoản, thượng thư Hoàng Phúc (41) diện phược dĩ tựu cầm。 Cương thi tắc Lạng Giang (42) Lạng San chi đồ,chiến huyết xích Xương Giang Bình Than (43) chi thủy。 Phong vân vi chi biến sắc,nhật nguyệt thảm dĩ vô quang。 Kì Vân Nam binh vi ngã quân sở ách ư Lê Hoa (44) , tự đỗng nghi hư hát nhi tiên dĩ phá phủ; kì Mộc Thạnh chúng văn Liễu Thăng vi ngã quân sở bại ư cần trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân。 Lãnh câu chi huyết xử phiêu, giang thủy vi chi ô yết;Đan Xá chi thi san tích, dã thảo vi chi ân hồng。 lưỡng lộ cứu binh kí bất toàn chủng nhi câu bại, các thành cùng khấu diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng。 
Tặc thủ thành cầm, bỉ kí điệu ngạ hổ khất liên chi vĩ; thần vũ bất sát (45) , dữ diệc thể thượng đế hiếu sanh chi tâm。 Tham tướng Phương Chánh, nội quan Mã Kì, tiên cấp hạm ngũ bách dư tao, kí độ hải nhi do thả hồn phi phách tán; tổng binh Vương Thông, tham chánh Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh。 Bỉ kí úy tử tham sanh, nhi tu hảo hữu thành; dữ dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức。 Phi duy mưu kế chi cực kì thâm viễn, cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn。
Xã tắc dĩ chi điện an,san xuyên dĩ chi cải quan。 Càn khôn kí phủ nhi phục thái, nhật nguyệt kí hối nhi phục minh。 Vu
dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ, vu dĩ tuyết thiên địa vô cùng chi sỉ。 Thị do thiên địa tổ tông chi linh hữu dĩ mặc tương âm
hựu nhi trí nhiên dã!
Ô hô! Nhất nhung đại định,hất thành vô cạnh chi công; tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo。 Bá cáo hà nhĩ,hàm sử văn tri。

Xem:
Bản dịch của Bùi Kỷ

Tuesday 17 March 2015

Bản dịch của Bùi Kỷ (*)


Tượng mảng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân; quân điếu phạt (1) chỉ vì khử bạo. Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc lập; cùng Hán, Ðường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có.
Vậy nên:
Lưu-Cung sợ uy mất vía, Triệu-Tiết nghe tiếng giật mình. Cửa Hàm-Tử giết tươi Toa-Đô, sông Bạch-Đằng bắt sống Ô-Mã. Xét xem cổ tích, đã có minh trưng,
Vừa rồi:
Vì họ Hồ chính sự phiền hà, để trong nước nhân dân oán hận. Quân cường Minh đã thừa cơ tứ ngược, bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn nghìn khoé, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân nghĩa nát cả càn khôn, nặng khóa liễm vét không sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống biển mò châu; nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim trả. Tàn hại cả côn trùng thảo mộc, nheo nhóc thay! quan quả điên liên! Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ mất cả nghề canh cửi.
Ðộc ác thay! trúc rừng không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay! nước bể khôn rửa sạch mùi,
Lẽ nào trời đất tha cho; ai bảo thần nhân nhịn được.
Ta đây:
Núi Lam-Sơn dấy nghĩa; chốn hoang dã nương mình. Ngắm non sông căm nỗi thế thù; thề  sống chết cùng quân nghịch tặc. Ðau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy nắng mưa; nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh; ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang thịnh,
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu. Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần; nơi duy ác hiếm người bàn bạc. Ðôi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục đông; mấy thuở đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả. Thế mà trông người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt mù như kẻ vọng dương; thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vã như khi chửng nịch. Phần thì giận hung đồ ngang dọc; phần thì lo quốc bộ khó khăn. Khi Linh-Sơn lương hết mấy tuần; Khi Khôi huyện quân không một lữ.
Có lẽ trời muốn trao ta gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma. Cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi; quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.
Dọn hay:
Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn; lấy chí nhân mà thay cường bạo. Trận Bồ-Đằng sấm vang sét dậy; miền Trà-Lân trúc phá tro bay. Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh. Trần-Trí, Sơn-Thọ, mất vía chạy tan; Phương-Chính, Quý-An tìm đường trốn tránh. Ðánh Tây-Kinh phá tan thế giặc; lấy Ðông-Đô thu lại cõi xưa. Dưới Ninh-Kiều máu chảy thành sông, Bến Tụy-Động xác đầy ngoài nội. Trần-Hiệp đã thiệt mạng; Lý-Lương lại phơi thây. Vương-Thông hết cấp lo lường; Mã-Anh khôn đường cứu đỡ. Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao; ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ, biết lẽ tới lui; ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội nghiệt. Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người; tham công một thời, chẳng bõ bày trò dở duốc. Ðến nỗi đứa trẻ con như Tuyên-Ðức, nhàm võ không thôi; lại sai đồ nhút nhát như Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy.
Năm Ðinh-Mùi tháng chín, Liễu-Thăng từ Khâu-Ôn tiến sang. Lại năm nay tháng mười, Mộc-Thạnh từ Vân-Nam kéo đến. Ta đã điều binh thủ hiểm, để ngăn lối Bắc quân; ta lại sai tướng chẹn ngang, để tuyệt đường lương đạo. Mười tám, Liễu-Thăng thua ở Chi-Lăng; hai mươi, Liễu-Thăng chết ở Mã-Yên. Hai mươi lăm, Lương-Minh trận vong; hai mươi tám, Lý-Khánh tự vẫn. Lưỡi đao ta đang sắc, ngọn giáo gặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vây thành; hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc.
Sĩ tốt ra oai tì hổ, thần thứ đủ mặt trảo nha.
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn.
Ðánh một trận sạch không kình ngạc; đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô; tổ kiến hổng sụt toang đê cũ.
Thôi-Tụ phải quỳ mà xin lỗi; Hoàng-Phúc tự trói để ra hàng.
Lạng-Giang, Lạng-Sơn, thây chất đầy đồng; Xương-Giang, Bình-Than, máu trôi đỏ nước.
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi. Thảm đạm thay! Sáng nhật nguyệt phải mờ.
Binh Vân-Nam nghẽn ở Lê-Hoa, sợ mà mất mật; quân Mộc-Thạnh tan chưng Cần-Trạm, chạy để thoát thân. Suối máu Lãnh-Câu, nước sông rền rĩ; thành xương Ðan-Xá, cỏ nội đầm đìa. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy; các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu.
Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội. Thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh. Mã-Kỳ, Phương-Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực; Vương-Thông, Mã-Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ hôi.
Nó đã sợ chết cầu hòa, mở lòng thú phục; ta muốn toàn-quân làm cốt, cả nước nghỉ ngơi. Thế mới là mưu kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có. Giang san từ đây mở mặt; xã tắc từ đây vững bền. Nhật nguyệt hối mà lại minh; Kiền, Khôn, Bĩ mà lại Thái. Nền vạn thế xây nên chăn chắn; thẹn nghìn thu rửa sạch làu làu. Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng giúp đỡ cho nước ta vậy.
Than ôi!
Vẫy vùng một mảnh nhung y, nên công đại định. Phẳng lặng bốn bề thái vũ, mở hội vĩnh thanh.
Bá cáo xa gần,
Ngỏ cùng nghe biết.



Ghi chú:
(*) Bình Ngô Ðại Cáo nguyên bản Hán văn và bản dịch của Bùi Kỷ, được trích lại trong Lam Sơn Thực Lục (trang 50, 51 và 64, 70).
Nguồn:   Dương Quảng Hàm. (1968). Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Bộ Giáo dục Trung tâm Học liệu, 1968, trang 273-276.

Bình Ngô Đại Cáo (phiên âm)


bình Ngô (0) đại cáo

đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược
viết。
cái văn﹕ nhân nghĩa chi cử
, yếu tại an dân, điếu phạt
(1)
chi sư mạc tiên khử bạo。 duy

ngã Đại Việt chi quốc, thật
vi văn hiến chi bang。 san xuyên
chi phong vực thù, nam bắc
chi phong tục diệc dị。 tự Triệu
Đinh Trần chi triệu tạo ngã quốc
, dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các
đế nhất phương。 tuy cường nhược thì
hữu bất đồng nhi hào kiệt thế vị
thường phạp。 cố Lưu Cung (2) tham công
thủ bại, nhi Triệu Tiết (3) hảo
đại xúc vong。 Toa Đô (4)
cầm ư Hàm Tử quan, Ô Mã
(5) hựu ế ư Bạch Đằng hải。 kê
chư vãng cổ, quyết hữu minh trưng
。 khoảnh nhân Hồ (6) chánh chi phiền hà
。 chí sử nhân tâm chi oán bạn
。 cuồng Minh tí khích, nhân dĩ
độc ngã dân; ác đảng hoài gian
, cánh dĩ mại ngã quốc (7) 。 hân
thương sanh ư ngược diễm, hãm xích
tử (8) ư họa khanh。 khi thiên võng
dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng
; liên binh kết hấn nhẫm ác đãi
nhị thập niên。 bại nghĩa thương nhân
, càn khôn cơ hồ dục tức;
trọng khoa hậu liễm, san trạch mĩ
hữu kiết di。 khai kim tràng tắc
mạo lam chướng nhi phủ san đào sa
, thải minh châu tắc xúc giao long
nhi căng yêu thộn hải。 nhiễu dân
thiết huyền lộc  (9) chi hãm tỉnh, điễn
vật chức thúy cầm chi võng la
côn trùng thảo mộc giai bất đắc
toại sanh, quan quả điên liên
(10) câu bất hoạch an sở
tuấn sanh linh chi huyết nhuận kiệt
hiệt  (11) chi vẫn nha; cực thổ mộc
chi công sùng công chi giải
(12) 。 châu lí chi chinh dao trọng
khốn, lư diêm chi trữ dữu giai
không。 quyết đông hải chi thủy bất
túc trạc ô, khánh nam
san chi trúc (13) bất túc thư
ác。 thần dân chi sở cộng phẫn
, thiên địa chi sở bất dong。
phấn tích (14) Lam San, tê thân
hoang。 niệm thế thù khởi khả
cộng đái, thệ nghịch tặc nan dữ
câu sanh。 thống tâm tật thủ giả
thùy thập niên, thường đảm ngọa
tân giả cái phi nhất nhật。 phát
phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao
lược chi thư, tức cổ nghiệm kim
, tế thôi cứu hưng vong chi lí
。 đồ hồi chi chí ngụ mị bất
vong。 đương nghĩa kì sơ khởi chi
thì, chánh tặc thế phương trương chi
nhật。 nại dĩ﹕ nhân tài thu
diệp, tuấn kiệt thần tinh。 bôn
tẩu tiên hậu giả phạp nhân
, mưu mô duy ác giả hựu quả
trợ。 đặc dĩ cứu dân chi
niệm, mỗi uất uất nhi dục đông
; cố ư đãi hiền chi xa,
thường cấp cấp tả  (15) 。 nhiên
đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng
dương, do kỉ chi thành thậm ư
chửng nịch  (16) 。 phẫn hung đồ chi vị
diệt, niệm quốc bộ chi tao truân
。 Linh San  (17) chi thực tận kiêm tuần
, Khôi huyện chi chúng vô nhất lữ
。 cái thiên dục khốn ngã dĩ hàng
quyết nhậm, cố dữ ích lệ chí
tế vu nan。 yết can vi
(18) , manh lệ (19)  chi đồ tứ tập;
đầu dao  (20) hưởng, phụ tử chi
binh nhất tâm。 dĩ nhược chế cường
, hoặc công nhân chi bất bị;
quả địch chúng thường thiết phục
xuất。 tốt năng dĩ đại nghĩa
nhi thắng hung tàn, dĩ chí nhân
nhi dịch cường bạo。 Bồ Đằng (21)  chi
đình khu điện xiết (22) , Trà Lân (23)  chi
trúc phá hôi phi。 sĩ khí dĩ
chi ích tăng, quân thanh dĩ chi
đại chấn。 Trần Trí San Thọ (24) văn
phong nhi sỉ phách, Lí An Phương
Chánh (24) giả tức thâu sanh。 thừa
thắng trường khu, Tây Kinh (25) kí vi
ngã hữu; tuyển phong tiến thủ,
Đông Đô (25) tận phục cựu cương。 Ninh
Kiều (26) chi huyết thành xuyên, lưu tinh
vạn; Tốt Động (27) chi thi tích
, di xú thiên niên。 Trần
Hiệp (28) tặc chi phúc tâm, kí kiêu
thủ; Lí Lượng (28) tặc chi gian
đố, hựu bạo quyết thi。 Vương
Thông (28) loạn nhi phần giả ích phần
, Mã Anh (28) cứu đấu nhi nộ giả
ích nộ。 bỉ trí cùng nhi lực
tận, thúc thủ đãi vong; ngã
mưu phạt nhi tâm công (29) , bất chiến
tự khuất。 vị bỉ tất dịch tâm
nhi cải lự, khởi ý phục tác
nghiệt tốc(30) 。 chấp nhất kỉ
chi kiến giá họa ư tha nhân
, tham nhất thì chi công dĩ di
tiếu ư thiên hạ。 toại lệnh Tuyên
Đức (31) chi giảo đồng, độc binh vô
yếm; nhưng mệnh Thạnh Thăng (32) chi nọa
tướng, dĩ du cứu phần。 Đinh 
Mùi cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh
do Khâu Ôn (33) nhi tiến, bổn niên
thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự
Vân Nam nhi lai。 dữ tiền kí
tuyển binh tắc hiểm tồi phong
, dữ hậu tái điều binh tiệt lộ
đoạn thực。 bổn nguyệt thập
bát nhật Liễu Thăng (32) vi ngã quân sở
công, kế trụy ư Chi Lăng (34) chi
; bổn nguyệt nhị thập nhật Liễu
Thăng hựu vi ngã quân sở bại
thân tử ư Yên (35) chi san
nhị thập ngũ nhật Bảo Định Lương
Minh trận hãm nhi táng khu, nhị
thập bát nhật thượng thư Khánh (37) kế
cùng nhi vẫn thủ。 ngã toại nghênh
nhận nhi giải, bỉ tự đảo qua
tương công。 kế nhi tứ diện thiêm
binh bao vi, kì dĩ thập
nguyệt trung tuần nhi điễn diệt。 viên
tuyển hưu (38) chi, thân mệnh
trảo nha chi thần。 ẩm tượng nhi
thủy can, ma đao nhi san
thạch quyết。 nhất cổ nhi kình (39) khô
ngạc đoạn, tái cổ nhi điểu tán
quân kinh。 quyết hội nghĩ ư băng
đê, chấn cương phong ư cảo diệp
。 đô đốc Thôi Tụ (40) tất hành nhi
tống khoản, thượng thư Hoàng Phúc (41) diện
phược tựu cầm。 cương thi tắc
Lạng Giang (42) Lạng San chi đồ, chiến
huyết xích Xương Giang Bình Than (43) chi thủy
。 phong vân vi chi biến sắc,
nhật nguyệt thảm quang。 kì
Vân Nam binh vi ngã quân sở ách
ư Hoa (44) , tự đỗng nghi hư
hát nhi tiên phá phủ; kì
Mộc Thạnh chúng văn Liễu Thăng vi ngã
quân sở bại ư cần trạm, toại
lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát
thân。 lãnh câu chi huyết xử phiêu
, giang thủy vi chi ô yết;
Đan chi thi san tích, dã
thảo vi chi ân hồng。 lưỡng lộ
cứu binh bất toàn chủng nhi câu
bại, các thành cùng khấu diệc tương
giải giáp xuất hàng。 tặc thủ
thành cầm, bỉ kí điệu ngạ hổ
khất liên chi; thần vũ bất
sát (45) , dữ diệc thể thượng đế hiếu
sanh chi tâm。 tham tướng Phương Chánh
, nội quan Mã Kì, tiên cấp
hạm ngũ bách tao, kí độ
hải nhi do thả hồn phi phách tán
; tổng binh Vương Thông, tham chánh
Anh, hựu cấp mã sổ thiên
thất, dĩ hoàn quốc nhi ích
tự cổ lật tâm kinh。 bỉ kí
úy tử tham sanh, nhi tu hảo
hữu thành; dữ dĩ toàn quân vi
thượng, nhi dục dân chi đắc tức
。 phi duy mưu kế chi cực kì
thâm viễn, cái diệc cổ kim chi
sở vị kiến văn
tắc chi điện an
san xuyên chi cải quan。 can
khôn phủ nhi phục thái, nhật
nguyệt hối nhi phục minh。 vu
khai vạn thế thái bình chi
, vu dĩ tuyết thiên địa vô cùng
chi sỉ。 thị do thiên địa tổ
tông chi linh hữu mặc tương âm
hựu nhi trí nhiên!
ô hô! nhất nhung đại định,
hất thành cạnh chi công; tứ
hải vĩnh thanh, đản bố duy tân
chi cáo。 bá cáo hà nhĩ,
hàm sử văn tri

Xem:
Bản dịch của BÙI KỶ (*)


平吳大告 (阮廌)






















使














鹿










































竿
;













西



























調




















稿













































!
!



使


Xem:

Bình Ngô Đại Cáo (phiên âm) 
Bản dịch của Bùi Kỷ (*)